Nhóm thuốc điều trị nhồi máu cơ tim
Contents
- 1 Đại cương về bệnh nhồi máu cơ tim
- 2 Các thuốc điều trị nhồi máu cơ tim
Đại cương về bệnh nhồi máu cơ tim
Trên thế giới mỗi năm có nhiều người chết do bệnh nhồi máu cơ tim. Nhồi máu cơ tim xảy ra khi một vùng của cơ tim bị chết hoặc bị hư hỏng vĩnh viễn do động mạch vành bị tắc nghẽn bởi cục máu đông làm cho máu vào nuôi vùng cơ tim đó. Thuốc điều trị nhồi máu cơ tim để nhanh chóng mở động mạch bị chặn và phục hồi lưu lượng máu đến nuôi dưỡng cơ tim. Tắc nghẽn động mạch vành gây tổn thất máu và ôxy nuôi cơ tim, dẫn đến thương tích cho cơ tim, Tổn thương cơ tim làm đau,tức ngực. Nếu lưu lượng máu không được khôi phục trong vòng 20 -40 phút thì cơ tim sẽ bắt đầu chết. Trong điều trị nhồi máu cơ tim, các thuốc điều trị nhồi máu cơ tim với mục đích làm giảm nhu cầu tiêu thụ ôxy cơ tim, tăng cường tưới máu cho vùng cơ tim bị thiếu máu và những thuốc ngăn chặn sự tiến triển của quá trình vữa xơ động mạch đóng vai trò hết sức quan trọng.
Các thuốc điều trị nhồi máu cơ tim
Thuốc điều trị nhồi máu cơ tim nhóm nitrate gồm 2 loại có tác dụng khác nhau:
– Loại cho tác dụng nhanh: dùng ngậm hoặc xịt dưới lưỡi như natispray, lenitral spray; loại tiêm tĩnh mạch như ống tiêm lenitral 10ml chứa 15mg nitroglycerin.
– Loại cho tác dụng chậm dùng đường uống như viên lenitral, viên nitromine…
Tác dụng của thuốc:
Tác dụng chủ yếu của các thuốc nhóm này là làm giãn tĩnh mạch ngoại vi dẫn đến giảm lượng máu về tim (giảm tiền gánh) kết hợp với giãn các tiểu động mạch dẫn đến giảm sức cản ngoại vi (giảm hậu gánh). Kết quả của 2 tác dụng này là giảm công cơ tim và dẫn đến giảm tiêu thụ ôxy của cơ tim.
Đối với động mạch vành, thuốc cũng có tác dụng giãn động mạch do vậy chống được hiện tượng co thắt mạch vành; giúp tăng cường tuần hoàn bàng hệ tới các khu vực cơ tim bị thiếu máu.
Tác dụng phụ của thuốc:
Nhức đầu, choáng váng, bốc hỏa, hạ huyết áp (nhất là ở người già), nhịp tim nhanh… cần lưu ý, nhất là bệnh nhân sử dụng đồng thời các thuốc có tác dụng hạ huyết áp.
Thuốc chẹn thụ thể bêta giao cảm
Đây là nhóm thuốc đối kháng cạnh tranh với các chất giao cảm, làm giảm tần số tim, giảm sức co bóp của cơ tim, do đó làm giảm nhu cầu ôxy của cơ tim, tăng cường tưới máu cho động mạch vành do vậy góp phần làm giảm sự lan rộng vùng hoại tử cơ tim. các thuốc này còn có tác dụng phòng và làm giảm tai biến loạn nhịp tim.
Tác dụng phụ của thuốc:
– Tác dụng phụ của các thuốc chẹn beta chủ yếu liên quan đến chậm nhịp tim và hạ huyết áp.
– Với bệnh nhân có rối loạn chức năng tâm thất trái trước đó, có thể làm cho tình trạng suy tim nặng thêm, thậm chí có thể nguy hiểm đến tính mạng, do vậy cần phải thận trọng khi sử dụng.
Thuốc điều trị nhóm chẹn kênh canxi
Ion canxi có vai trò rất quan trọng trong co cơ, do vậy việc ức chế kênh canxi sẽ gây cản trở quá trình co cơ làm giãn cơ trơn thành mạch gây giãn mạch, hạ huyết áp. Đối với một số loại, thuốc còn có tác dụng làm chậm nhịp tim, giảm sức co bóp của tim dẫn đến giảm tiêu thụ ôxy cơ tim và giãn động mạch vành, tăng cường nuôi dưỡng cơ tim. Các thuốc này được chia làm 2 nhóm có chỉ định và chống chỉ định khác nhau; đó là nhóm dihydropyridin và nhóm non dihydropyridin.
Thuốc điều trị nhóm ức chế men chuyển
Các thuốc nhóm này không những có tác dụng hạ huyết áp mà cải thiện chức năng nội mạc mạch máu ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim do đó làm giảm được các biến cố suy tim, nhồi máu cơ tim tái phát. thuốc được chỉ định sớm ngay khi bị nhồi máu cơ tim. Nhược điểm hay gặp nhất của các thuốc nhóm này là triệu chứng ho; nếu ho ít mà bệnh nhân có thể chịu đựng được thì nên cho bệnh nhân dùng thuốc. Các thuốc hay được dùng là perindopril, lisinopril, enalaprin,… Thuốc điều trị nên được dùng bắt đầu bằng liều thấp sau đó tăng dần liều tùy theo đáp ứng của từng bệnh nhân.
Các thuốc điều trị nhóm điều chỉnh rối loạn lipid máu
Vữa xơ động mạch là nguyên nhân chủ yếu gây nhồi máu cơ tim. Cholesterol máu đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành và tiến triển của mảng vữa xơ động mạch. việc điều chính các rối loạn lipid máu là không thể thiếu được trong điều trị nhồi máu cơ tim. các thuốc này không những làm giảm các biến cố tim mạch ở bệnh nhân có rối loạn lipid máu, mà còn giảm các biến cố này ở cả những bệnh nhân không bị rối loạn lipid máu.