Artemisinin sử dụng trong điều trị sốt rét thế nào.
Artemisinin là một thuốc chống sốt rét, được phân lập từ cây Thanh hao hoa vàng (Artemisia annua L.), họ Asteriaceae.
Contents
Dược lý và cơ chế tác dụng của thuốc
Cơ chế tác dụng của artemisinin hiện còn chưa biết thật rõ phản ứng đối với hemin (hemozoin) trong ký sinh trùng. In vitro, phản ứng này sinh ra các gốc hữu cơ tự do độc hại có thể gây phá hủy các màng của ký sinh trùng. Khác với các thuốc chống sốt rét hiện đang được dùng có cấu trúc dị vòng chứa nitrogen, artemisinin là một sesquiterpen lacton có cầu nối endoperoxid. Cầu nối này rất quan trọng đối với tác dụng chống sốt rét của nó. Artemisinin có tác dụng mạnh diệt thể sốt rét phân liệt, nhưng thực tế thuốc không có tác dụng trên thể ngoại hồng cầu, thể thoa trùng và thể giao tử.
Thuốc có hiệu quả điều trị cao, thậm chí cả đối với ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum đã kháng cloroquin.
Dược động học của thuốc
Sau khi tiêm bắp, artemisinin hấp thu chậm hơn chút ít so với khi uống thuốc hoặc tiêm tĩnh mạch. Thời gian bán thải của thuốc là 3,85 – 5,38 giờ. Nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được khoảng 2 giờ sau khi dùng thuốc.
Sau khi đặt thuốc hậu môn, liều 10 mg/kg ở người, nồng độ thuốc trong máu của artemisinin là 8,6 nanogam/ml sau 30 phút, và đạt tới nồng độ tối đa trong máu khoảng 110 nanogam/ml khoảng 6 giờ sau khi dùng thuốc.
Artemisinin có thể dùng uống hoặc dùng đặt hậu môn. Sau khi uống, artemisinin được hấp thu nhanh, nồng độ đỉnh đạt được trong huyết tương trong vòng 1 giờ. Sự hấp thu qua trực tràng của hỗn dịch trong nước kém hơn và thay đổi so với dùng uống hoặc tiêm bắp dung dịch dầu.
Thuốc phân bố rất rộng vào trong cơ thể
Artemisinin liên kết mạnh với protein huyết tương. Sự liên kết với protein huyết tương ở người là khoảng 64%. Thực nghiệm cho thấy gan là nơi chuyển hóa chính của thuốc artemisinin.
Artemisinin bị thủy phân nhanh trong cơ thể thành các chất chuyển hóa còn hoạt tính là dihydroartemisinin. Người uống artemisinin sẽ cho 4 chất chuyển hóa đó là deoxyartemisinin, dihydro – xydihydroartemisinin, deoxydihydroartemisinin và một chất được gọi là crystal – 7 có thể phân lập được ở nước tiểu. Các chất này không có nhóm peroxid và đều không còn hoạt tính với ký sinh trùng.
Thời gian bán thải của thuốc trong huyết tương của artemisinin khoảng 30 phút, còn của dihydroartemisinin là 5 – 21 giờ.80% liều dùng được đào thải qua phân và nước tiểu trong vòng 24 giờ.Chỉ một lượng rất nhỏ artemisinin được đào thải nguyên dạng qua nước tiểu.
Chỉ định của thuốc.
Artemisinin có hiệu quả tốt trong điều trị sốt rét, nhưng chỉ dùng khi các thuốc chống sốt rét khác không có tác dụng và phải dùng đủ liều lượng.
Ðiều trị sốt rét do tất cả các loại Plasmodium, kể cả sốt rét nặng do chủng P. falciparum đa kháng thuốc .
Chống chỉ định của thuốc
Mẫn cảm với các thành phần của thuốc.
Liều lượng và cách dùng thuốc
Ở Việt Nam, liều artemisinin cho người lớn như sau:
Ngày thứ 1: dùng 1000 mg (4 viên) chia làm 2 lần. Sau đó dùng 500 mg/ngày, trong 4 ngày liên tiếp.
Viên đạn: Người lớn: Ngày thứ 1: dùng 1250 mg chia làm hai lần. Sau đó dùng 750 mg/ngày, trong 2 – 3 ngày liên tiếp.
Viên nén: Viên thuốc có thể dùng nhai và nuốt mà không có vị khó chịu. Liều dùng người lớn và trẻ trên 6 tháng như sau:
Ngày thứ 1: 25 mg/kg, dùng một lần duy nhất.
Ngày thứ 2: dùng 12,5 mg/kg, dùng một lần duy nhất cộng với mefloquin dạng base 15 – 25 mg/kg.
Ngày thứ 3: dùng 12,5 mg/kg, dùng một lần duy nhất.